Giới chức ngành dược Mỹ vào năm 1973 thừa nhận rằng họ chuộng tù nhân
làm đối tượng thí nghiệm vì giá rẻ hơn so với mua tinh tinh.Tù nhân từ lâu đã bị biến thành nạn nhân cho mục đích y khoa. Vào năm
1915, bác sĩ Joseph Goldberger, một trong những người hùng của ngành y
Mỹ, đã tuyển tù nhân ở Mississippi tham gia cuộc thí nghiệm nhằm chứng
minh giả thuyết chứng nứt da xảy ra do ăn uống thiếu chất. Công trình
này giúp ông 5 lần được đề cử cho giải Nobel Y học. Đến năm 1920, bác sĩ
L.L Stanley của nhà tù San Quentin ở California cấy tinh hoàn của gia
súc và những tù nhân mới bị tử hình vào cơ thể các bệnh nhân già yếu để
xem có thể bổ sung testosterone theo cách này hay không, theo tờ The
Washington Post.
Phớt lờ đạo luật Nuremberg Trong thời gian diễn ra Thế chiến thứ 2, tù nhân được vận động để
trợ giúp cuộc chiến bằng cách tham gia các thí nghiệm có thể giúp ích
cho binh lính nơi tiền tuyến. Ví dụ, một loạt thí nghiệm được thực hiện
tại nhà tù Stateville ở bang Illinois và 2 trại giam khác để kiểm tra
hiệu quả của thuốc chống sốt rét cho các binh sĩ đang chiến đấu tại Thái
Bình Dương. Nhiều bác sĩ Mỹ lúc đó phớt lờ các điều luật quốc tế nhằm
bảo vệ đối tượng thí nghiệm y khoa là con người, đặc biệt là luật
Nuremberg năm 1947. Họ cho rằng luật Nuremberg chỉ áp đặt cho các thành
viên Đức Quốc xã mà thôi.
Đến những năm 1960, ít nhất hơn phân nửa tiểu bang ở Mỹ cho phép
dùng tù nhân thay cho chuột lang trong các thí nghiệm y khoa. Nhà tù
Holmesburg ở Philadelphia cho phép tận dụng tối đa tù nhân trong nghiên
cứu. Ký ức kinh hoàng vẫn còn in đậm trong tâm trí những người còn sống
đến ngày nay. Edward “Yusef” Anthony đã đồng ý cho lóc một mảng da trên
lưng và sau đó phủ lên vết thương những hóa chất để thử nghiệm thuốc.
Anthony làm vậy để có tiền mua thuốc lá trong nhà tù, theo AP. Đổi lại,
ông phải chịu đựng cảm giác đau đớn cùng cực, giống như bị lửa thiêu
đốt.
Tuy nhiên, 2 cuộc nghiên cứu trong thập niên 1960 đã làm thay đổi
hoàn toàn thái độ của công chúng khi chứng kiến các đối tượng thí nghiệm
bị đối xử ra sao. Cuộc thí nghiệm đầu tiên đã bị phơi bày năm 1963. Các
nhà khoa học tiêm tế bào ung thư vào 19 bệnh nhân già yếu và suy nhược
tại New York để xem cơ thể của họ có tự đào thải chúng hay không. Các
nạn nhân không hề biết mình đột nhiên biến thành vật thí nghiệm. Đến năm
1966, dư luận một lần nữa bị sốc khi biết tới phiên trẻ em chậm phát
triển trí não bị nhắm đến. Từ năm 1963-1966, các em tại trường
Willowbrook ở đảo Staten thuộc thành phố New York bị cho uống hoặc tiêm
vi-rút viêm gan để xác định xem chúng có được chữa lành bằng thuốc gamma
globulin như trên lý thuyết hay không.
Các cuộc thí nghiệm tại nhà tù Holmesburg - Ảnh: Urban Archives/Temple University Hai cuộc thí nghiệm trên, cùng với cuộc nghiên cứu giang mai tại
Tuskegee được tiết lộ vào năm 1972, đã khiến dân Mỹ bàng hoàng, theo
Susan Reverby, sử gia của Đại học Wellesley (Massachusetts). Trước sức
ép của dư luận và báo giới, Chính phủ Mỹ đã ra lệnh loại bỏ toàn bộ các
cuộc thí nghiệm y khoa khỏi hệ thống nhà tù liên bang.
Tìm “chuột lang” nước ngoài Khi nguồn cung cấp tù nhân và bệnh nhân tâm thần bị chặn, các nhà
nghiên cứu Mỹ tìm đường xuất ngoại. Lý do cũng dễ hiểu, chi phí rẻ hơn
và ít luật lệ cản trở hơn. Họ cũng dễ dàng tìm được những bệnh nhân
không được uống thuốc men vì quá nghèo, một điều kiện lý tưởng cho các
cuộc thí nghiệm thuốc do không sợ bị lẫn kết quả với các loại thuốc
khác. Và trong 15 năm qua, đến lượt dư luận thế giới phẫn nộ trước 2
cuộc thí nghiệm tại châu Phi. Tại Uganda, trong các cuộc thí nghiệm do
Mỹ tài trợ, các bác sĩ không cung cấp thuốc AZT chống AIDS do toàn bộ
các thai phụ có HIV dù thuốc này có thể bảo vệ thai nhi khỏi căn bệnh
thế kỷ.
Trong một cuộc thí nghiệm khác do hãng dược Pfizer thực hiện ở Kano,
Nigeria năm 1996, các nhà nghiên cứu dùng kháng sinh Trovan chữa viêm
màng não cho trẻ em tại đây, dù tác dụng thuốc vẫn có nhiều nghi vấn. Dư
luận cho rằng cuộc thí nghiệm đã khiến 11 trẻ thiệt mạng và làm tàn tật
nhiều trẻ khác. The Washington Post dẫn lời bác sĩ Evariste Lodi thuộc
Tổ chức Bác sĩ không biên giới từng chữa bệnh tại Kano nói: “Đó là một
tội ác”.
Pfizer đã đồng ý trả 75 triệu USD cho giới chức Nigeria nhưng vẫn
khăng khăng rằng thuốc của họ chẳng gây vấn đề gì cả. Tuy nhiên, công
tác chuẩn bị cho thử nghiệm tại Nigeria chỉ diễn ra trong 6 tuần, ít hơn
nhiều so với hơn 1 năm tại Mỹ. Không chỉ thế, trong khi phần lớn người
tham gia ở Mỹ được tiêm tĩnh mạch thì các bệnh nhi Nigeria hầu hết phải
uống thuốc viên, phương pháp mà chính Pfizer thừa nhận là chưa từng áp
dụng trên trẻ em.
Hồi năm ngoái, Bộ Y tế Mỹ cho hay có từ 40 đến 65% cuộc nghiên cứu
các sản phẩm dược liên bang được thực hiện tại các nước khác trong năm
2008, và tỉ lệ này có thể đã tăng thêm trong thời gian qua. Báo cáo cũng
ghi nhận giới chức nước này kiểm tra không đến 1% cơ sở thí nghiệm ở
nước ngoài. Cuối năm 2010, Tổng thống Mỹ Barack Obama quyết định thành
lập Ủy ban Y đức gồm 15 thành viên để rà soát toàn bộ các cuộc thí
nghiệm vô nhân đạo từ trước đến nay. Và cho đến tháng 9, thời hạn ủy ban
nộp báo cáo cho tổng thống, nhiều khả năng sẽ có thêm nhiều thí nghiệm
rùng rợn hơn được công bố.
Thụy Miên
Trao doi lien ket